Béo phì (toàn thân hay trung tâm) là một trong những nguyên nhân chính gây tình trạng đề kháng insulin cùng các rối loạn chuyển hóa khác như tăng huyết áp và rối loạn lipid máu, đều có khả năng tiến triển thành ĐTĐ nếu không được kiểm soát tốt.
Ảnh hưởng của béo phì lên sự hình thành ĐTĐ có thể được điều chỉnh bằng cách thay đổi lối sống. Rối loạn dung nạp glucose có thể được cải thiện nếu gia tăng hoạt động thể lực và kiểm soát tốt trọng lượng, từ đó giảm nguy cơ tiến triển thành ĐTĐ. Ba mươi phút hoạt động thể lực mỗi ngày và giảm 5% trọng lượng cơ thể giúp giảm 55% tỷ lệ ĐTĐ mới mắc trên nhóm đối tượng nguy cơ cao.
Chế độ ăn uống không hợp lý
- Tiêu thụ thực phẩm có chỉ số đường huyết cao có thể dẫn đến tăng quá mức glucose máu và nồng độ insulin và làm xấu đi tình trạng đề kháng insulin ở nhóm đối tượng mẫn cảm cao.
GS. Walter Willet - đại học Harvard, chuyên gia nổi tiếng về dinh dưỡng gợi ý nên ăn đủ thực phẩm ở đáy tháp (rau, ngũ cốc nguyên hạt, dầu) và ăn ít ở phần đỉnh tháp (thịt đỏ, gạo trắng, đường và muối). Như vậy, gạo trắng nên giảm ở mức tương tự như khuyến cáo ăn đường và bơ, đồng thời thay thế gạo trắng và bánh mì trắng bằng ngũ cốc thô.
Phân tích cho thấy, chỉ số đường huyết (GI) của gạo trắng rất cao chứng tỏ gạo trắng làm tăng mức đường huyết trong máu một cách dễ dàng.
Ông cho biết, những thế hệ người Mỹ gốc Nhật thứ hai và thứ ba - những người thích ứng với văn hóa lối sống như Mỹ, vẫn có tỷ lệ ĐTĐ cao so với người da trắng. Bên cạnh yếu tố di truyền còn do thói quen ăn uống kiểu Nhật (với chế độ ăn chủ yếu dựa vào gạo và bột mì, ít thực phẩm nguồn gốc động vật, nhiều muối) của nhiều người Mỹ gốc Nhật vẫn còn tồn tại.
So sánh BMI giữa người VN và Đài Loan bị ĐTĐ mới được chẩn đoán cho thấy BMI của người VN bị ĐTĐ thấp hơn BMI của người Đài Loan bị ĐTĐ ở cả nam và nữ, và cả ở những nhóm tuổi khác nhau. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều người VN bị ĐTĐ có BMI hoàn toàn bình thường. Điều này gợi ý do người VN tiêu thụ nhiều carbohydrat (thường từ gạo trắng) có thể là yếu tố dẫn đến bệnh ĐTĐ ở người có chỉ số BMI bình thường.
Ăn quá nhiều gạo trắng không thể khống chế được mức đường huyết, đặc biệt đối với người tuổi trung niên và người cao tuổi.
Trái lại, nếu phối hợp giữa gạo trắng với các loại thực phẩm khác có thể giúp giảm bớt tình trạng này. Nên tính đến việc thay thế gạo trắng bằng ngũ cốc nguyên hạt và chất xơ sẽ tốt hơn. Chế độ ăn uống giàu chất xơ làm chậm sự hấp thụ carbohydrat và điều hòa phản ứng bài tiết insulin.
- Việc tiêu thụ các chất béo không bão hòa đơn hay đa (chất béo thực vật) có lợi đối với quá trình chuyển hóa glucose và tăng độ nhạy của insulin. Ngược lại, chế độ ăn giữa chất béo bão hòa và chuỗi trans (chất béo động vật) làm giảm độ nhạy của insulin và ảnh hưởng bất lợi đến sự chuyển hóa glucose.
- Nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, vitamin D và calci cũng góp phần gia tăng độ nhạy của insulin, góp phần đẩy lùi diễn tiến của ĐTĐ.
Lối sống
Lối sống ít vận động làm gia tăng nguy cơ ĐTĐ, ngược lại hoạt động thể lực thường xuyên với mức tiêu hao năng lượng khoảng 500 kcal/tuần có thể làm giảm 6% nguy cơ ĐTĐ. Rượu và thuốc lá cũng là yếu tố nguy cơ cao của ĐTĐ, ảnh hưởng gián tiếp qua trung gian béo phì, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp trên chuyển hóa glucose qua tác động trên bài tiết insulin và độ nhạy của insulin. Nguy cơ ĐTĐ phụ thuộc vào mức độ hút thuốc cũng như uống rượu. Tiêu thụ rượu ở mức độ nhẹ đến trung bình (dưới 48 g alcohol/ngày) có thể làm giảm gần 30% nguy cơ ĐTĐ, trong khi nghiện rượu nặng tăng nguy cơ ĐTĐ hơn 2 lần.
Tuổi
Nguy cơ của ĐTĐ tăng theo quá trình lão hóa. Ở các nước đang phát triển, ĐTĐ thường tập trung ở độ tuổi 45 - 64. Thay đổi cấu trúc cơ thể với tình trạng tăng tích lũy mỡ bụng là yếu tố chính dẫn đến tăng nguy cơ ĐTĐ ở dân số trung niên và già. Ngoài ra, cùng với quá trình lão hóa, kích thước khối cơ quan trọng liên quan trực tiếp đến chuyển hóa đường giảm, dẫn đến yếu cơ và giảm khả năng vận động thể lực. Những thay đổi này làm giảm năng lượng tiêu hao, dễ tích lũy mỡ bụng gây tình trạng đề kháng insulin.
Chủng tộc
Do có sự khác biệt về thành phần cơ thể, đặc biệt là khối lượng và thể tích mô mỡ nội tạng nên nguy cơ ĐTĐ được ghi nhận nhiều hơn ở người Mỹ gốc Phi, gốc Tây Ban Nha và người châu Á.
Tiền sử
Nguy cơ ĐTĐ cao hơn nếu tiền sử gia đình có một hoặc nhiều người thân trực hệ (bố, mẹ, anh, chị, em) bị ĐTĐ; phụ nữ có tiền sử ĐTĐ thai kỳ hoặc từng sinh một em bé nặng hơn 4 kg; tiền sử bản thân có glucose máu cao hoặc rối loạn dung nạp glucose; tiền sử bản thân bị suy dinh dưỡng bào thai hoặc có cân nặng lúc sinh thấp.
Theo: khoahocphothong.com.vn